Trần Vân Hạc
Mùa A Sử nâng túm lông ngựa bạch trên tay, ông vuốt ve rồi đưa lên mũi
hít hà. Từ đôi mắt già nua ngân ngấn đôi dòng lệ. Trong ký ức của ông
bỗng hiện lên hình ảnh con ngựa bạch mà ông vô cùng yêu quý, nó phải
vĩnh viễn xa ông vì việc nghĩa, biết vậy, nhưng ông vẫn thương nhớ khôn
nguôi.
Khắp vùng biên giới phía bắc này ai cũng biết A Sử là người
sành và quý ngựa. Ông đặc biệt có tài trong việc chọn và thuần ngựa.
Con bạch mã của ông được coi là có một không hai và được ông vô cùng yêu
quý. Chỉ có điều không ai biết tại sao ông lại đem tặng cho một người ở
bên kia biên giới.
Đó là con ngựa Mùa A Sử ngẫu nhiên mua được ở
chợ ngựa Bắc Hà – Lào Cai từ một tay buôn ngựa không chuyên. Hôm đó chỉ
thoáng nhìn, ông đã biết đấy là con ngựa quý nhưng không được chăm sóc
chu đáo. Tuy dáng vẻ gầy còm, lông bờm xơ xác, bẩn thỉu, nhưng cái dáng
chân cao, mình thon, mũi khô, mắt sâu và sáng khiến A Sử vô cùng thích
thú. Ông thầm reo lên khi thấy ở tai con ngựa có xoáy. Khi còn sống, cha
của A sử đã dạy rằng: Phàm con ngựa nào có xoáy ở tai là rất thính,
nghe được xa và biết có thú dữ mai phục. Sau này điều đó được kiểm chứng
khiến ông thoát nạn và càng gắn bó với con bạch mã hơn. Ông cố nén nỗi
vui mừng khi thấy ở gối con bạch mã có đủ bốn xoáy. Người sành ngưạ gọi
đó là “tứ mục trung đồng” đặc biệt quý hiếm, con ngựa nào có đặc điểm
này đích thị là thiên lý mã. Con bạch mã về với A Sử chỉ mấy tháng trời
đã đổi khác hoàn toàn. Từ một hình hài còm nhom, yếu ớt nay thực sự là
một tuấn mã. Bộ lông trắng muốt được xén tỉa chải chuốt óng mượt, khắp
người cuồn cuộn cơ bắp. Người khắp vùng đều đồn đại về con ngựa quý.
Nhiều người sành ngựa đã trả A Sử số tiền lớn mong có được con bạch mã
nhưng chỉ nhận được nụ cười và cái lắc đầu dứt khoát của ông. A Sử đẩy
mấy gốc củi chụm bếp, ánh lửa bập bùng nhảy nhót. Ông mỉm cười nhớ lại
cái lần đi thăm người bạn ở bên kia biên giới. Đường núi cheo leo nhưng
con bạch mã vẫn phi vững vàng như trên đất bằng. Qua khúc ngoặt bỗng con
bạch mã khựng lại, cánh mũi phập phồng. A Sử chưa kịp gỡ khấu súng
khoác trên vai thì một con báo gấm từ trên vách đá lao bổ xuống. Con
bạch mã đảo ngưòi tung một cú đá hậu đánh văng con báo ra, đủ thời gian
cho A Sử hạ con báo bằng một phát đạn chính xác. Khi cơn nguy hiểm đã
qua, A Sử cứ ôm và vuốt ve mãi con bạch mã. Ông dụi đầu vào bộ lông mềm
ấm và thốt lên:
- Đúng là linh vật, ta đã mang ơn mày rồi. Ta thề không bao giờ xa mày, bạch mã ơi!
Chừng như hiểu ý chủ, con bạch mã dậm chân vươn cổ hí vang. A Sử nhớ
mãi, mùa đông năm ấy lạnh lắm, sương muối đóng thành lớp băng mỏng trên
mái nhà lợp gỗ thông và những nơi đất xốp. Cây cối cháy đỏ cả lá, người
già và trẻ con không xa được bếp lửa. Chính trong những ngày đó, A sử có
khách và cuộc gặp gỡ này quyết định số phận của con bạch mã.Khách là
một người đàn ông trung niên và là con trai duy nhất của người bạn kết
nghĩa của A sử. Trong một lần đi săn trên núi xa, không may A Sử bị rắn
độc cắn. Tuy đã nhanh tay hái một số lá cây theo kinh nghiệm của phường
săn nhai nuốt và đắp bã vào vết thương, nhưng A sử vẫn bị choáng, ông
chỉ kịp bắn một phát súng báo hiệu hú hoạ rồi thiếp đi. Khi tỉnh dậy, A
sử thấy một người đàn ông lạ cũng trạc tuổi ông đang mỉm cười rồi cất
tiếng lơ lớ:
- Hảo lớ! May mà ngộ đến kịp lớ…
Về sau A Sử
mới biết đó chính là người làm nghề gia truyền chữa rắn độc cắn. Ông ta
có cậu con trai duy nhất đã đứng tuổi mà vẫn chưa có con, thuốc thang
khắp nơi mà không có kết quả. Cứ nghĩ đến cái cảnh dòng họ bị tuyệt tự
là ông lại vô cùng buồn chán và cứ đi khắp nơi chữa bệnh cứu người, hy
vọng cái phúc sẽ đến và đúng là cái may, cái phúc đến cả với hai ông. A
Sử vốn có bài thuốc gia truyền chữa bệnh vô sinh do một gia đình người
Dao truyền cho nhân dịp ông cứu sống người con trai của họ đi săn bị tai
nạn trên núi cao. A Sử bắt mạch, thăm bệnh, cắt thuốc và tự tay sắc cho
đôi vợ chồng con người bạn mới. Rồi sự kỳ diệu đã đến, người bạn già
của ông có cháu, đặc biệt là cháu trai, niềm khao khát của cả gia đình
và dòng họ. Từ đó hai người kết nghĩa anh em, hai nhà coi nhau như một.
Năm ngoái người bạn bỏ ông và gia đình về với tổ tiên. Trước khi nhắm
mắt, người bạn già nắm chặt tay ông thều thào, trăng trối mong ông chú ý
chăm sóc giùm con cháu. Vừa bước vào cửa, người đàn ông sụp xuống chân A
Sử cầu xin:
- Con xin ông cứu giúp cho cháu nhỏ, lúc này chỉ có ông
mới cứu được cháu …A Sử vội nâng người đàn ông đang tím tái vì giá lạnh
dậy dìu tới bên bếp lửa. Sau khi uống cạn chén rượu nóng A sử đưa,
người đàn ông nói:
- Thưa ông, con trai con bị bệnh trọng
đã cả mùa đông này. Nó không đi lại được, cả dòng họ con đã chạy vạy
thuốc thang nhưng bệnh tình không chuyển, thậm chí còn nặng thêm. Gần
đây có vị danh y từ Sơn Đông tới mách cho một vị thuốc chắc chắn sẽ khỏi
bệnh…
Gỡ tẩu thuốc ra khỏi miệng A Sử vội hỏi:
- Thuốc gì? Người đàn ông ngập ngừng rồi nói:
- Dạ thưa, thầy thuốc dạy phải có cao hổ cốt nấu cùng một con ngựa bạch
toàn tính. Bên nhà, cha con còn để lại một bộ hổ cốt, chỉ hiềm một nỗi
khắp vùng không tìm ra con ngựa bạch nào.
Không khí như bỗng chùng
hẳn lại. Tiếng gió rít lùa qua khe vách ván thông sắc lạnh, tiếng than
củi nổ tí tách. Mùa A Sử nhìn lung vào bếp lửa. Ông cũng nghe nói tới vị
thuốc này, cao hổ nếu nấu riêng đã là vị thuốc quý tăng lực và chữa
xương khớp, khi nấu với ngựa bạch toàn tính sẽ quý vô cùng chữa khỏi
bệnh thấp khớp nan y. Mà phải là ngựa toàn thân trắng như tuyết phủ, mồm
đỏ, mũi đỏ, giờ ngọ đứng yên như chính con bạch mã của ông. A Sử chợt
giật mình, trái tim đau nhói như bị bàn tay vô hình bóp chặt. Ông hiểu
lời cầu xin chưa nói rõ của người đàn ông kia. Cứ nghĩ tới lúc phải vĩnh
viễn xa chú ngựa bạch là tưởng như ông không sao chịu nổi. Bất giác ông
hừ nhẹ trong cổ và cầm con dao để bên bếp lửa chém mạnh vào khúc củi
khiến tàn lửa bay tung như hoa cải. Người đàn ông giật mình quỳ sụp
xuống:
- Con xin ông tha lỗi. Cũng là việc cùng bất đắc dĩ con mới liều cầu xin ông. Xin ông thương cho cháu nhỏ.
A Sử chợt tỉnh. Ông nâng người đàn ông dậy nhìn trong đôi mắt mệt mỏi
như có ngọn lửa le lói niềm hy vọng. A Sử thầm nghĩ: “Ta biết lắm chứ,
ta với cha ngươi tuy không họ hàng nhưng tình hơn cốt nhục, mà con của
ngươi do đâu mà có kia chứ? Cho ngươi con ngựa mà ta quý như chính thân
thể ta, ta đau lắm, nhưng sinh ra làm con người thì phải biết cứu người
trong cơn hoạn nạn…” Sau cái đận ấy, A Sử ốm liền mấy tháng trời. Nhiều
khi ông không ăn không ngủ, cứ tha thẩn bên chuồng ngựa hay bãi cỏ bên
suối như tìm lại hình bóng con ngựa thân yêu.
Đang chìm trong ký
ức, A Sử chợt giật mình nghe tiếng gọi từ chân dốc, tiếng gọi của một
đứa trẻ vừa quen vừa lạ. Ông đứng bật dậy bước vội ra sân và bỗng sững
người lại. Nắng xuân chan hoà khắp núi rừng, trên các triền đồi lộc non
mơn mởn. Từ chân dốc, hai bố con cháu của bạn ông, người bạn kết nghĩa
đang phăng phăng ngược dốc. Thằng bé hồng hào khoẻ mạnh sà vào lòng ông
nghẹn ngào:
- Ông … nội!
A Sử ôm ghì lấy thằng bé. Ông dụi đầu
vào lòng nó cố giấu đôi dòng nước mắt, ông đặt nó xuống đất nhìn ngắm
một hồi rồi cả ba lại ôm chầm lấy nhau, tiếng cười vang động khắp núi
ngàn.
2002
Trần Vân Hạc