Thứ Tư, 26 tháng 4, 2017

Vô đề


"Rũ bỏ mọi ưu phiền
Bên chén trà tịnh vị
Làn hương không vị kỷ
Phảng phất lời kinh thiêng".

Đông Tùng

Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

Cuộc chiến Loa phường




          Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung  là người phát hiện ra sự lỗi thời của cái loa phường và cũng là người đề xuất khai tử cho nó . Sau ý tưởng này , dư luận xã hội bàn tán lùm xùm dẫn đến một cuộc thăm dò kiểu như trưng cầu dân ý . Kết quả 90% đồng tình với ông chủ tịch ! Những tưởng kết quả này sẽ là lời cáo chung cho loa phường . Nhưng không , nó vẫn còn và nói không ngoa rằng có phần hoạt động sôi nởi hơn trước nữa kia . Cái lý để nó sống và sống bừng lên là do bản án cuối cùng luận cho nó chưa minh bạch . Ừ thì ở các xã , thị trấn , thị xã ngoại thành vẫn duy trì loại hình này chẳng nói làm gì . Nhưng với các quận nội thành nó được “Hạn chế tối đa” ! Vậy số còn lại tối thiểu là bao nhiêu ? Không đặt tại khu chung cư , trường học , bệnh viện và nơi có nhiều người cao tuổi ! Vậy loa được đặt cách những nơi này là bao nhiêu hay chỉ không đặt vào chính chỗ đó ?
          Những quyết định được đưa ra rất cần cụ thể và được thường xuyên kiếm tra mới mong mang lại hiệu quả . Chuyện cái loa phường và cái vỉa hè nên được quan tâm như nhau kẻo chúng tỵ nạnh nhau thì câu chuyện sẽ mất đi tính công bằng và cái đích hiệu quả . Xin đừng coi nhẹ chuyện cái loa phường vì nó cũng có thể chứa đựng lợi ích nhóm trong đó chứ chả chơi !

Thứ Sáu, 21 tháng 4, 2017

Giọt lệ mo hồn

                                                                                                           Nguyễn Anh Tuấn
 
Hai giờ chiều, để thực thi một nhiệm vụ tối đặc biệt, Cư bỏ xe con công vụ, một mình nhảy xe ôm đi một chặng đường dài, rồi xuống đò tới một trong những bản cuối cùng còn vướng mắc giải tỏa: bản Púng Lầm.
Trên con thuyền đuôi én sứt sẹo vượt sóng, Cư nhìn về phía thượng nguồn. Hàng chục cây số dọc bờ sông, cách đây không lâu từng là những khu dân cư trù phú, giờ đã tiêu điều hoang vắng dành cho lòng hồ thủy điện. Từ ngoài bến vào bản, lối đi trồi sụt, cỏ rậm rì. Vài ba con khỉ rừng thập thò trong các mảnh vườn lút cỏ. Những cối giã gạo bằng nước và bằng chân chỏng trơ đã mốc thếch. Vài túp lều dựng tạm bằng nilông, tôn lợp, tre nứa... Có người quay về chỉ để thu hoạch nốt vườn tược nương rẫy, có người khăn gói quay lại hẳn bản cũ. Và cũng có người quyết không đi đâu cả! Tại đây, theo một nguồn tin, các gia đình cố thủ còn dấu hai khẩu súng kíp, họ tung lên "tai rừng" những tuyên bố đáng sợ! Ba lần cán bộ của Ban đã tới thuyết phục, rồi đều phải quay về, lắc đầu. Một cuộc họp liên tịch căng thẳng. Cưỡng chế! Cư như bị á khẩu. Kinh hoàng. Sao cứ phải gạch vỡ, nhà cháy, máu đổ?!... Nhưng tình hình quá nghiêm trọng, lại trước một tập thể "cây đa cây đề", Cư tạm bó tay. Trước đó, Cư và một số người trẻ trong Ban đã không chỉ làm "Dân vận" mà còn phải làm "Quan vận" nữa! Chính anh là người kiến nghị để đồng bào được di chuyển ngôi sàn đến nơi tái định cư, phù hợp với nguyện vọng, tập quán. Và không chỉ một lần, Cư xin trực tiếp đến ăn ngủ tại những gia đình chây lỳ, khiến vợ anh phải bồn chồn lo lắng cả đêm. Nhưng lần này...
Vợ Cư, một cô giáo người Thái dạy phổ thông trung học là người đầu tiên được anh tâm sự về các diễn biến trong và sau cuộc họp ( Dĩ nhiên là không có hai khẩu súng kíp!). Cư đã gặp trưởng Ban xin được giải quyết êm thấm vụ này. Ông chỉ tay lên trên. Cư đã phải gõ vài cửa, bằng sự nhẫn nại mà không hiểu vì sao anh có được, cùng những lời hứa như đinh đóng cột. Anh được toại nguyện, kèm sự ái ngại không dấu diếm của những người "ra ơn lần cuối" cho anh... Trước khi đi, thấy vợ lúi húi nhét ếp-khẩu2 còn lựng thơm nếp nương vào cặp, Cư xua tay: "Khỏi cần. Vào bản Thái mà!" Chị cứ cài lại chiếc cặp căng phồng. Cư với túi thổ cẩm đang treo góc nhà, phủi bụi, rồi lấy ếp-khẩu, tập sách truyện, cuốn sổ tay, chiếc đèn pin và con dao găm từ cặp chuyển vào túi. Nghĩ sao, anh bỏ cuốn sách và con dao ra. Chị lặng đi nhìn anh, không dấu được nỗi thảng thốt trong đáy mắt: "Anh thận trọng nhé... Người bản ấy có súng...". Anh nói như quát: "Ai bảo em thế?".
Lúc này, bên những vết tích còn lại của bản Thái hoang tàn, Cư có cảm tưởng lạc vào nơi từng ghi dấu sự tích kể về cô gái con tạo bản đã héo hon mà chết vì mong nhớ người yêu; nhưng mọi người không sao đem nổi xác nàng ra khỏi nhà, bởi hồn nàng quyết không chịu rời đi. Bản bị hồn ma ám, không ai dám ở. Còn chàng trai nghèo thất tình, khi trở về đã ôm ấp nàng suốt bảy ngày đêm mà không biết đó là thi thể giá lạnh, giữa cái bản vắng tanh... Cư sinh ra, lớn lên ở phố núi, học chuyên nghiệp xong vào cơ quan Nhà nước, phải tới đận làm công tác di dân, anh mới thực sự được sống với vui buồn của người dân bản. Lần đầu tiên anh mới có dịp thấm hiểu nỗi day dứt nhớ thương đàn gia súc mà người phụ nữ vẫn hàng ngày chăm sóc, giờ phải chia xa: "Ở lại nhé, đàn vịt nhỏ thường đẻ trứng/ Đàn gà nhỏ thường gáy của ta ơi!/ Chiều chiều ta không còn được nắm gạo xuống chăm" 3... Cũng lần đầu tiên, khi tận mắt chứng kiến cảnh phụ nữ già trẻ của một bản đều khóc ở lễ Lúng ta (Gội đầu) lần cuối bên đoạn sông sẽ biến mất, Cư mới được cảm nhận bằng trực giác thế nào sự gắn bó của con người với quê hương, xứ sở...
Một người đàn bà địu ngô từ nương bên kia sông về bản. Trò chuyện đôi câu với chị, Cư vỡ lẽ, vì sao thầy dạy văn cũ của anh, một nhà báo trung ương, tháng trước đã từ chối đề nghị của trò cũ đang là một quan chức, không muốn đi cùng anh bằng phương tiện của Ban để tới các địa điểm giải phóng lòng hồ. Ông vác máy quay đi một mình, lang thang nhiều ngày qua các làng bản đã hay sắp di dời, ghi lại tâm tư của người dân. Chết thôi, phải lập tức đề nghị ông giữ kín những tư liệu đó, để khi thành công thủy điện công bố cũng chưa muộn. Nhưng chắc mình lo xa quá. Đúng là "cầm đèn chạy trước ô tô"! Cư mỉm cười tự diễu. Song ngay lập tức, một nỗi lo sợ bủa vây anh. Một nòng súng đang bí mật theo dõi mọi hành tung của anh, chỉ đợi chút gì thất thố hay bất cẩn là sẽ tóe lửa. Rồi sau đó có thể là một, hai ngôi nhà bốc cháy đùng đùng. Gai ốc bỗng nổi lên. Cư đứng lặng, hít một hơi thở thật sâu tự trấn tĩnh. Khi đã bớt hoảng loạn, lòng thương vợ con chợt len lỏi tận ti vi huyết quản. Tay anh bất giác sờ lên chiếc ếp-khẩu, dường để tìm một chỗ dựa cần thiết. Giọt lệ giấu vội của vợ lúc quay ngoắt đi chập chờn ẩn hiện. Lúc này, chắc cô ấy đang lo lắng đến tê dại. Anh chợt ân hận đã nói như quát khi tạm biệt. Lần này, đâu phải như mọi lần... Nếu một cô gái gia đình cán bộ quen sống từ bé ở đô thị, phải sống trong cảnh sắp rời bỏ ngôi nhà sàn như người con gái của Xống chụ son sao: "Ở lại nhé, nái lợn đen ở gầm sàn/ Chiều chiều ta không được xách đậu cám xuống cho ăn", thì cô ấy sẽ nghĩ gì? Cư tỉnh táo trở lại. Đồng thời, một niềm rưng rưng chợt dấy lên... Cư chưa được biết những tư liệu của thầy giáo cũ có những gì, nhưng anh đã xem phóng sự "Giã biệt Cà Nàng" của ông, ở đó anh đồng cảm với tình thương, sự mến phục nghẹn ngào trước sự hy sinh cho nghĩa cả của đồng bào.
Mặt trời vừa lặn sau dãy núi bên kia sông. Núi liền sẫm đen lại hung dữ. Sương mù ập xuống. Bên này sông, bản cũ hoang vu càng thêm lạnh lẽo trong màn sáng lem nhem, mờ ảo. Cư đã quay lại bến sông, kịp hỏi han ghi chép thêm tin tức qua mấy đứa trẻ trai đang bơi lội, đùa nghịch. Một đứa tỏ ra biết kỹ: "Hai nhà bắc ván thông nhau. Cửa sổ có bao cát. Có cả súng kíp mua của người Mông tận Co Tòng cơ!". "Thế các cháu không đi học à?"- Cư ngắt lời nó như thể xóa bỏ cái ấn tượng khó chịu bởi sự hồn nhiên của trẻ thơ trước tội ác chưa xảy ra. Hỏi xong mới thấy mình vô duyên. Trường nào ở chốn này! Chúng nhìn lạ lùng. "Chú là cán bộ di dân à? Không phải, vì không có cặp da!"- "Chú là ai thì cũng là khách của bản. Tập tục người Thái ta thế nào?". Một đứa láu táu: "Chú vào nhà cháu, cháu mời chú uống nước...- Nó ngần ngừ - Nhà cháu mấy hôm nay ăn cháo ngô rồi...- Mắt nó sáng lên - Nhưng chú vào hai nhà ông Khem, ông Bình sẽ được mời cơm cá đấy! Họ trữ lương thực để ở lại bản thật lâu mà". Cư bật hỏi: "Thế nếu nước hồ dâng lên thì sao nào?". Đứa lớn nhất trạc tuổi con gái út anh, vẻ trịnh trọng: "Họ bảo không thèm di vén lên, mà chìm cùng nước!". Một đứa đế thêm: "Nhưng không chết đuối bởi thuồng luồng đâu nhé! Tự giết cả nhà để nước làm mồ chôn". Cư thoáng rùng mình. Sực nhớ, anh lấy ếp-khẩu xôi đưa cho lũ trẻ. Chúng rụt rè nhìn nhau. Chắc thấy anh khẩn khoản, đứa lớn nhất cầm lấy. Rồi chúng lại nhìn nhau vẻ nghi ngại. Cư mỉm cười: "Chú không đói.".
Bọn trẻ liền xúm quanh đứa cầm ếp-khẩu, mắt hau háu chờ chia phần. Ánh sáng nhập nhoạng trên những gương mặt hốc hác, lam lũ trước tuổi vì đói ăn và những ngày tháng sống hoang dại. Cư chợt nhớ câu chuyện mẹ kể khiến anh thổn thức suốt thời thơ ấu: có một gia đình nghèo đông con, đúng năm hạn lớn, người mẹ kiệt sức. Người chồng sang nhà tạo bản vay được một nắm gạo, dành tới khuya nấu cháo cho vợ. Nhưng khi muôi bát lỡ chạm nhau, bọn trẻ đã vùng dậy. Hai vợ chồng nhường các con cả nồi cháo, rồi đành gạt nước mắt, bí mật đưa chúng vào rừng tự kiếm sống. Năm sau được mùa, họ vội vào rừng tìm các con. Nhưng, "Cô chị cả đã hoá thành khỉ kêu/ Cô chị hai thành vượn hót mặt đỏ/ Còn thằng Căng và thằng Khằng đã thành con dím, con dũi đào đất làm ổ sâu"5... Cư lặng lẽ rời bọn trẻ, đi sâu vào bản hoang, lòng xáo động bởi câu chuyện vừa sống dậy sau nhiều năm quên lãng... Nhưng chiếc túi thổ cẩm giờ nhẹ tênh, bước chân anh sao trĩu nặng. Anh có quyền quay trở về. Vẫn còn kịp. Không ai trách móc, phê bình hết. Thậm chí, có người sẽ vỗ tay hoan hỷ... Còn vợ anh thì sẽ chỉ cấu véo trách yêu vì đã để chị mất oan một đêm lo âu thót tim! Cái vụ này, quả là mình ăn gan Trời. Mặc dù vẫn lễ phép, nhẫn nhịn, song cái ý chí sắt đá của mình khi đề nghị bỏ cưỡng chế, đã khiến không ít vị chưng hửng, thậm chí kinh ngạc. Hôm đó, sao mình hăng thế. Còn thề thốt đủ thứ... Nhưng ai dám bảo là mình đã sợ hãi? Dớ dẩn! Cư lấy ra chiếc đèn pin, sốc lại chiếc túi thổ cẩm nhẹ hều trên vai, thầm tiếc đã bỏ cuốn sách và con dao ra. Bạn Cư làm luận văn thạc sĩ về kịch Sê-khôp, từng kể một nguyên lý kịch học: nếu có một khẩu súng treo ở đầu cảnh một, thì tới cảnh năm, nhất định nó phải nổ súng. Nhưng đó là kịch! Con dao sẽ chỉ cần thiết cho đúng khoảnh khắc này, chỉ giúp làm nặng thêm cái bờ vai không phải lúc nào cũng đủ tự tin như mình... Dớ dẩn nốt! Cư nảy cảm giác liều lĩnh, bất cần. Những ánh mắt thương hại, sự dè bỉu coi thường của mọi người trong Ban, kể cả của vợ con anh nữa, bỗng dưng khiến anh sôi tiết. Cư soi chúc đèn pin, khum bàn tay che bớt sáng, chậm rãi bước về phía hai ngôi nhà mà vài giờ trước anh quan sát được từ xa. Ve rừng bắt đầu nhưng nhức hòa âm giữa không gian đen kịt. Loài ve đã nhập vào các phi bản, phi mường (hồn ma) đây, định dọa ta chắc? Đừng có hòng! Nhưng một tiếng chim đêm cô độc cất lên khắc khoải khiến Cư chợt nao lòng, rã rời ý chí... Một bà mẹ đi đào củ mài, vì quá mệt và đói nên cắm đầu chết trong hố củ. Đứa con nhỏ ngồi chờ phía trên cứ gọi mãi, giục mãi mẹ về cho em bú, rồi nó biến thành con chim đêm. Có phải là loài chim này không? Đừng hủy hoại nốt lòng dũng cảm ta vừa vun lại được! Cư tắt đèn pin, nấp sau một gốc cây để lấy lại tinh thần, và để mắt quen với đêm tối, quan sát địa hình. Anh căng mắt nhìn ánh đèn dầu hắt qua các cửa sổ của hai ngôi nhà sàn truyền thống, trong đó một nhà từng được phá để di dời, rồi chính nó được dựng lại sát kề nhà hàng xóm thành thế liên kết, dù mong manh vẫn là đáng kể. Chúng xếp hàng ngang trước mắt, vì thế anh không thể nhìn thấy bốn cửa ra vào phía bốn đầu hồi, trong đó có một cửa bên quản, một cửa bên chan phải được nối với nhau bằng ván- nếu bọn trẻ nói đúng. Ở mấy cửa sổ, hình như nổi lên các bao cát để kê nòng súng, và để tránh đạn. Trẻ con không biết bịa! Chà! Thành một vế tục ngữ mới được đấy, kiểu như: "Trẻ con không biết mệt, con gái không biết đói"... Ờ, làm người ai mà chẳng biết đói, biết mệt! Nhưng ở các vùng quê nghèo quen tự cung tự cấp xưa nay, mối quan tâm hàng đầu là “khẩu đón, tón pa khao”(gạo trắng, miếng cá bạc), mà hoàn cảnh lại khắc nghiệt, thì vô tình phụ nữ và trẻ con bao giờ cũng phải chịu đựng, chịu thiệt thòi nhiều nhất... Mai về, đọc câu tục ngữ cổ này cho vợ nghe, xem gái Thái mang danh trí thức hiểu tới đâu? "Ngày mai" lập tức kéo anh một cách phũ phàng về đáy thực tại "Ngay lúc này". Cư dụi mắt để có thể quan sát kỹ hơn hiện trạng "pháo-đài-nhà-sàn" chưa từng có ở vùng này, kể từ thời mưa máu chinh chiến vùng Thập châu. Ừ, mà sao mình lại có vẻ dấm dúi thế? Hãy làm khách đường hoàng. Chuyện gì xảy ra chưa biết, nhưng trước tiên hãy để họ có cơ hội thể hiện là người dân miền núi quý khách, trọng khách như luật tục bao đời. Cư bước tới giữa hai ngôi nhà, cất giọng nói to:
- Có ai ở nhà không ạ?
Ánh sáng đèn dầu lay động. Tiếng dẫm sàn nứa cót két. Một tiếng nói trầm trầm tựa dưới Âm ty vọng ra từ mép cửa sổ:
- Ai vậy ?
Nghe giọng đoán tuổi, Cư đáp:
- Ải lung (bác, anh) , em ở mường xa tới, xin miếng cơm ngụm nước!
- Vậy à? Mời lên sàn.
- Lên thang nào đây ạ ?
 Nếu tự cho là khách quý, lên đằng quản !
May rồi, như thế là mình sẽ được tận mắt nhìn thấy tấm ván liên kết phòng thủ của hai nhà. Sẽ chủ động khi xảy ra sự cố. Và có dữ liệu cụ thể cho bản báo cáo... Cư bước tới giữa hai ngôi nhà, chậm rãi bước lên thang quản ngôi nhà bên phải, anh nhìn thấy một tấm ván lớn lao từ bên quản nhà này sang chan nhà hàng xóm một cách chắc chắn. Quả là một sự đoàn kết sống mái, không kém mọi cuộc uống tiết ăn thề!
Bữa cơm rượu đãi khách được bưng ra trên một mâm gỗ lên màu thời gian trộn bồ hóng. Dòng rượu táo mèo phản chiếu đèn dầu hỏa và lửa bếp sàn sóng sánh tựa mật ong. Chủ nhà không hỏi anh từ đâu đến, làm gì, ông chỉ lặng lẽ uống và nhiệt tình rót như lâu ngày mới có khách tới thăm. Ông hàng xóm cũng được mời sang ngồi mâm. Sau mấy chén, họ mới trò chuyện dè dặt. Khi biết chủ nhà vốn là một ông mo, Cư hơi nao núng. Trời ạ, thuyết phục sao nổi một người đang làm chủ văn hóa cả mường bản!... Ông kể, ông chia một nửa gia đình tới vùng tái định cư cách đây gần trăm cây số để thăm dò trước. Nhưng nơi đó quá lạnh, lại ở nhà làm toàn bằng bê tông nên càng lạnh, vườn tược không có. Gia đình được phân một lô chè và hai con bò sữa. Sau hơn nửa năm bỡ ngỡ trong lĩnh vực làm ăn hoàn toàn mới, lại chưa được hướng dẫn kỹ thuật đầy đủ, bò ốm chết, gạo tạm ứng hết sạch, đành phải kéo nhau về, kết với một gia đình cùng cảnh ngộ ăn thề trụ lại. Còn mấy gia đình khác cũng quay về, chấp nhận cảnh di vén theo mực nước, bất kể nơi đó có điện, nước, trạm xá, trường học hay không; nhưng họ không nằm trong diện bị cưỡng chế...
Khi chủ khách đã ngà ngà, ở buồng giữa chăng màn đen, lời “khắp” của một người đàn bà vọng ra: “À…ới…ì... Rượu này là rượu tình rượu nghĩa, không phải là rượu phản rượu thù...”  Cư giật mình bay hết rượu. Câu hát có ẩn ý gì đây ? Họ đoán được mục đích của mình? Không phải! Mình trở nên đa nghi, cảnh giác từ bao giờ vậy? Nhưng đó là bài hát đầu cuộc rượu, sao đến lúc này mới hát? Một đòn tâm lý thăm dò? Cư vội lắc đầu nhẹ để tự xóa bỏ cái ý nghĩ có phần thiếu lương thiện. Chính mình là kẻ đã đến đây trong tâm địa dò tìm địch thủ trước, trong khi lẽ ra phải là một người bạn chỉ mang tới điều họ hằng khao khát: tình và nghĩa. Việc họ phải trang bị cả súng cho việc cố thủ, có lẽ chỉ là một phản ứng tuyệt vọng, bị dồn tới cùng đường, sẵn sàng buông hết cho số mệnh...
Trong lúc Cư đang miên man với bao ý nghĩ dằng xé gay gắt, ông mo đã từ góc nhà quay lại, mang theo trên tay mấy cuốn vở học sinh. Ông hàng xóm cáo lỗi ra về. Lúc ông ta đứng lên chào, Cư có cảm giác hai người làm dấu hiệu gì đó với nhau. Những bao cát phía sau lưng Cư là đồng lõa nham hiểm, chúng lầm lỳ lắng nghe để giải mã lời chủ nhân:
- Về Mường Húa, tôi ghi lại được một bản chiêu hồn quý lắm nhé! Cậu thích nghe không?
- Em chưa được biết văn bản này của người Thái ta, nên chắc cái gì cũng lạ, cũng thích...- Cư hồi hộp, nghe rõ từng hơi thở của mình.
Thế là ông vừa đọc vừa hát bằng cái giọng khê nồng song truyền cảm, về hành trình chiêu hồn của một ông mo mường xưa từ các tầng của mường Trời tới nhiều nơi dưới trần gian... Đúng nghề đúng việc cũ, lại gặp người thích nghe, không coi lời Mo khuôn là vô bổ, nhàm chán, ông có thể hài lòng sống qua một đêm chờ đợi dường vô tận.
Các trai và đoàn gái ta ơi
Niết Bàn dù cao sang chớ ở
Không cùng lứa đôi chớ nằm với nhau
Ma chia ruộng cho chớ làm
Ma chia rẫy chia nương chớ lấy
Ma phần phai cho chớ ngăn...
Người dân ai cũng muốn phân biệt rõ hồn ma tốt hồn ma xấu để soi lại cõi đời mình; và người hướng đạo phần hồn - các ông mo, hơn ai hết phải nhận chân sự thật nhằm giúp cho hồn dù ở trên trời hay nơi hạ giới, cả người chốn dương gian tránh bớt rủi ro, bất hạnh... Đối tượng của Cư lâu nay chính là những con người vốn có mơ ước cuộc sống bình dị, như các hồn của "Mo Khuôn" kia đang dung dăng dung dẻ đi qua sướng khổ của kiếp người, kiếp ma, với niềm tin chất phác: những ai đã làm điều thiện khi sống, thì lúc chết, không trước rồi sau sẽ được hóa thành vì sao sáng; còn những kẻ làm trái đạo người sẽ bị Then Xội trừng trị, bị nhốt vào cõi u minh vĩnh viễn... Ở cảnh ngộ nào, họ cũng lạc quan: "Dù miếng ăn còn nắm đầy nắm vơi, nhưng lúa gạo ở dưới đất, thức ăn ở trong rừng...". Nhưng anh và các cộng sự đã có đủ khả năng thuyết phục nổi những người đã mang nặng tâm lý bao đời: "Mười bản không bằng bản rụng rốn, mười mường chẳng bằng mường chôn nhau"?
Ngừng đọc một chút, ông cất giọng buồn hơn cả tiếng pí-thiu5 đêm vắng:
- Cậu biết không, nhiều nơi đẹp đẽ hồn đi qua, và cả nơi sinh ra bản Mo hồn này cũng sẽ chìm mãi trong nước lạnh...
Cặp mắt mờ đục của ông ư ứ nước. Ý chí Cư bị quật ngã, anh nôn nao say sóng. Phải chăng, đây mới là nguồn cội chính của mọi việc?... Ông chủ nhà chợt cắt ngang tâm tư xáo trộn của Cư:
- Cậu nghe nữa không? Lúc nãy là hành trình mường Trời. Giờ mới là hành trình Hạ giới...
Cư gật đầu lia lịa.
- Vâng, vâng, ải lung chưa mệt thì em còn muốn nghe. Ít khi em có dịp...
Ông lại khề khà, nửa đọc cho người nửa cúng ma cho hồn với đầy đủ lễ vật, kèn pí-lao, đèn nến lung linh trước mặt một mo mường. Trong khi hồn được dẫn qua các địa danh cả xa lạ lẫn quen thuộc đối với Cư - Mường Khiêng, bản Hốc, đồng Pụa, Mường Bon, bản Mòn..., Cư chợt hình dung cảnh những con bò sữa đã biến thành bò rừng gầy guộc run rẩy, đi ngơ ngác giữa những ngôi nhà xây cứng đờ theo kiểu doanh trại, không hề có những mảnh vườn thân thiết với phụ nữ, trẻ em, những lô chè mướt xanh hóa lùm cây dại, cỏ hoang trùm lấn... Hiện trạng này thực ra cũng đã được khắc phục khá nhiều. Nhưng nơi đó còn biết bao gian nan đang đón đợi. Nhiều điểm tái định cư khác tuy có thuận lợi hơn, song chuyện xóa đói giảm nghèo thực sự, vẫn còn là nỗi đau đầu. Rồi những kẻ bất lương cấu kết với không ít cán bộ đã lưu manh hóa, tuồn hàng rởm, hàng Tàu kém chất lượng tràn ngập nhiều làng bản chưa kịp hồi sinh, nhẫn tâm vơ vét những đồng tiền ít ỏi được đền bù của dân, ăn chặn đồ viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ, khiến đời sống của họ đã bấp bênh lại càng thêm cơ cực, khốn khó...
- Này, cán bộ!...
Tiếng của một người phụ nữ tựa tiếng thanh la xóc vào tai Cư. Anh choàng tỉnh. Chị tuổi ngoài năm mươi, dáng sắt lại như lõi cây rừng, mái tóc tằng-cẩu6 gọn ghẽ chắc chưa hề được gỡ ra đêm nào suốt những ngày qua. Chị đăm đăm như soi vào mắt Cư.
- Cậu vừa khóc đấy à? Sao lại khóc ở nhà anh chị?
Giọng chị bớt căng, và chuyển sang lối xưng hô thân mật gia đình của người Thái. Cư ngỡ ngàng vì điều đó, mà cũng vì xấu hổ. Đúng là anh đã chảy nước mắt tự lúc nào. Cư vội lấy tay quệt hai má.
- Dạ... Chắc là do  khói bếp đấy ạ...
- Cậu đừng giấu chúng tôi! Cậu là người của Ban di dân tái định cư! Cậu tới đây để lại vận động chúng tôi chứ gì?- Giọng người phụ nữ bỗng đanh lại.
Cư chết lặng. Anh đã lộ chân tướng. Một cách bị động. Một cách nhục nhã. Cư muốn hét lên: "Phải đấy! Thế thì sao? Anh chị có biết sự ngoan cố của anh chị đã khiến bao người thêm vất vả, biết bao thời giờ quý báu bị mất, nước hồ thì sắp dâng lên...". Nhưng Cư bị chẹn ngang họng. Một con thú mắc bẫy giương mắt nhìn người săn. Giọng người phụ nữ trở nên nhẹ nhàng, song Cư có cảm tưởng chị đang bỡn cợt một con dũi trong lồng trước khi lôi ra làm thịt:
- Có đứa trẻ báo... Nó được trả công hàng ngày mà! Chúng tôi đếm từng khắc chờ cậu đến, nhưng không mong chờ cậu sẽ lại tuyên truyền những thứ ai cũng thuộc làu đâu!
Như đọc được ý nghĩ của Cư vừa lóe lên, người đàn ông tiếp lời:
- Chúng tôi cũng không chờ đợi sự đe dọa lẫn những lời hứa hẹn. Mà cần ai đó hiểu cho: chúng tôi mệt mỏi lắm rồi. Cũng sợ chứ! Sợ đổ máu. Sợ phạm pháp... Nhưng hai tuần qua, ngày một thất vọng. Lại nghe ngóng là sẽ cưỡng chế, nên bảo nhau chuẩn bị sẵn sàng cùng sống chết...
Mồ hôi Cư toát đầm lưng áo. Ông chủ nhà thủng thẳng:
- May là cậu không nói ra những điều chúng tôi chẳng mong đợi...
Người phụ nữ tranh lời chồng:
- Có đấy, có điều chẳng mong đợi đấy!
Cư ngước mắt nhìn chị. Chị mỉm cười, nụ cười mệt mỏi còn hằn vết lo âu, sợ hãi nhiều ngày qua:
- Chính là nước mắt của cậu đấy!...
            Và chị cũng chảy nước mắt thương cả cho mình nữa.
Cư bật đứng dậy, lóng ngóng nhét lại áo vào thắt lưng để kìm nén một cảm xúc đột ngột khiến anh mất tư thế- điều thực không xứng đáng đối với một cán bộ không còn trẻ trung gì nữa, lại trước người dân dù sao cũng đang "có vấn đề". Anh lúng búng:
- Em... Em quấy rầy anh chị lâu quá rồi... Anh chị và bà con yên tâm. Sẽ không bao giờ có một cuộc cưỡng chế nào hết! Nhưng...- Cư ghìm lại được, và thầm tiếc chót nói từ "bà con" đậm tuyên huấn trước đông người - Nhưng... sao em không thấy con cháu anh chị ở nhà?
- Một nửa trực nhà, chúng đang đi săn... Một nửa đến những lều canh nương. Đang vụ mà - Bà chủ nhà nhanh nhảu.
Bỗng một tiếng súng nổ dội vào vách đá chát chúa. Cư giật bắn mình. Ông chủ nhà cau mày:
- Chắc thằng út hạ được cầy bay rồi... Lâu lắm, chúng mới về bản! - Ông quay bảo vợ- Tôi đã nói mà chúng nó không nghe à? Nếu có đi săn, thì bằng nỏ và bẫy thôi nhé!
Rồi ông đứng lên nói với Cư :
- Cậu cứ về đi đã!
- Thế gia đình anh chị sẽ di dời chứ?- Cư nóng ruột.
            Ông chủ nhà quắc mắt, hơi sẵng giọng:
- Cậu cẩn thận đấy! Về nhà đi! Mọi việc đâu có đó!- Ông chợt trầm ngâm- Chúng tôi đến chỗ nào cũng được, miễn là nơi đó áp dụng được lời có vần của ông cha: "Mất của dễ tìm, mất lòng khó kiếm..."
      Khi xuống sàn, Cư mới có dịp quan sát, dù chỉ trong vài giây- khẩu súng kíp treo sát cửa sổ. Và lần đầu tiên anh mới thấy khâm phục, tự hào trước kỹ thuật kỳ lạ cùng sự kiên nhẫn phi thưòng của người vùng cao: cái nòng thép đã được khoan bằng sức nước chảy ngày đêm suốt một năm ròng...
              Viết thêm                                      
Cuộc cưỡng chế đã không diễn ra, bởi Cư đã có cam kết với lãnh đạo thế nào đó. Mười ngày sau, ông mo Khem mang lên nộp hai khẩu súng kíp và thuyết phục được tất cả các gia đình bản Púng Lầm còn lại tới nơi tái định cư. Và Cư phải viết báo cáo. Nhưng anh chật vật cả tuần liền. Anh không biết phải kể lại những gì. Về mối thương tâm của đôi vợ chồng nhìn các con biến thành thú vật trong rừng, hay về cô gái bỏ chồng thản nhiên dạo chơi chẳng che vú trong những câu hát đưa hồn giúp anh lật ngược thế cờ? Về thái độ kiêu ngạo của một số người máy mê tín khẩu hiệu tuyên truyền, hay nỗi xót xa căm giận của anh trước những việc hủy hoại lòng tin của người dân đã nghèo đến độ không còn gì nữa ngoài niềm tin?... Dù sao thì anh cũng không thể viết như mọi khi được nữa, như mọi người vẫn viết và mong nhận được từ anh.
___________________________
1. Tức Mo Khuôn- một tác phẩm cổ nổi tiếng của dân tộc Thái Tây Bắc (Vương Trung dịch)
2. Vật đựng cơm xôi làm bằng giang, mây
3. Trường ca dân gian Thái "Xống chụ xon sao" (Tiễn dặn người yêu- Mạc Phi dịch)
4. Dân ca Thái Tây Bắc (Cầm Trọng kể)
5. Một loại sáo dọc của người Thái
6. Theo phong tục, phụ nữ Thái đen có chồng búi tóc lên cao, gọi là tằng cẩu.
                                                                                                       

                                      Tây Bắc- Hà Nội, cuối năm  2014

Chủ Nhật, 16 tháng 4, 2017

Tứ tuyệt Tháng Tư



Em ở nơi xa có biết không
Tháng Tư cháy bỏng nỗi chờ mong
Vừa tàn lụi hết trời hoa gạo
Anh lại thắp lên ánh phượng hồng .


                                   Phạm Đức Nhị

Thứ Ba, 11 tháng 4, 2017

Chữ của người Giao Chỉ

 Bài thơ “Gửi thày mẹ” được ông Đảm viết bằng “chữ của người Giao Chỉ”.


         Được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của Ban Chủ nhiệm và các bạn bè ở CLB thơ Ngọc Linh ở thành phố Kon Tum, chúng tôi đã tiếp xúc được với ông Nguyễn Văn Đảm là người biết “chữ của người Giao Chỉ”.
          Ông Nguyễn Văn Đảm sinh năm Đinh Hợi 1947, quê ở Nga Sơn, Thanh Hóa. Ông nhập ngũ, tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1968 tại D25, E270 công binh, được biệt phái về Ban GTVT Quân khu V. Ông xuất ngũ năm 1974. Hiện ông là hội viên Hội CCB, hội viên Hội Y học dân tộc cổ truyền tỉnh Kon Tum.
Khi chúng tôi hỏi về “chữ của người Giao Chỉ”, ông cho biết: Năm ông 13-14 tuổi (khoảng 1960-1961), được ông nội và cha dạy cho một thứ chữ không giống chữ các thầy cô giáo dạy ở trường, ông hỏi thì các cụ bảo: “Đây là chữ của người Giao Chỉ, các con phải học chữ này để đọc được gia phả và những điều thuộc nghề nghiệp gia truyền” (nghề tướng số, tử vi và nghề thuốc). Ông Đảm vừa học chữ phổ thông ở trường, vừa học chữ Giao Chỉ ở nhà, cho đến năm 1968 thì đi bộ đội...
          Bộ “chữ của người Giao Chỉ” ông Đảm cung cấp cho chúng tôi là bộ chữ khá hoàn chỉnh. Có đầy đủ các nguyên âm (gồm cả các nguyên âm phát sinh từ nguyên âm gốc), phụ âm (đơn và kép), số đếm và thanh điệu như chữ Quốc ngữ ta đang dùng bây giờ, mặc dù tự dạng (nét chữ) đơn sơ, quy tắc cấu tạo chữ đơn giản, cách ghép vần, ghép tiếng không khác gì chữ Quốc ngữ.


          Có một điều lạ là “bộ chữ của người Giao Chỉ” do ông Đảm cung cấp, những chữ cái đã được sắp xếp theo vần A B C (an - pha - bê) căn bản giống như bộ chữ Quốc ngữ ta đang dùng hiện nay. Chúng tôi có hỏi ông Đảm điều này, ông bảo ông nội và cha dạy thì biết thế, chứ các cụ cũng không giải thích gì cả.Để  lý giải hiện tượng này, theo thiển ý của chúng tôi, có khả năng sẽ xảy ra một trong hai tình huống sau:
     1. Rất có thể đây là “bộ chữ của người Giao Chỉ” mà năm 1624, giáo sĩ Alexandre de Rhodes học được từ một cậu bé khoảng hơn mười tuổi ở Hội An (như tự truyện ông kể).
Chỉ trong vòng ba tuần lễ, cậu bé đã dạy cho ông “biết tất cả các cung bậc khác nhau của tiếng Việt, cách thức phát âm của từng chữ”. Đồng thời, cũng trong 3 tuần lễ ấy, ông đã dạy cho cậu bé “học đọc, học viết chữ Latin” và ông “hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu” (theo nhà báo Mai Thục). “Thầy nhỏ” dạy “trò lớn” biết tiếng và chữ của người Giao Chỉ. “Trò lớn” dạy “thầy nhỏ” biết tiếng và chữ Latin.
Khi đã thành thạo tiếng và chữ của người Việt rồi, được các bậc bề trên dòng Tên giao trọng trách. Trên cơ sở những công trình dở dang trước đó của các giáo sĩ như Francisco de Pina, Antonio Barbosa, Gaspado Amaral... giáo sĩ Alexandre de Fhodes tiếp tục nghiên cứu để hoàn chỉnh việc Latin hóa bộ chữ tượng thanh vốn có của người Giao Chỉ, với mục đích để giúp các giáo sĩ phương Tây sau này học tiếng nhanh hơn, tốt hơn, thuận lợi cho việc truyền đạo. Bộ chữ được hoàn thiện dần theo thời gian với sự đóng góp của nhiều thế hệ học giả, trí thức Việt sau này để thành bộ chữ Quốc ngữ hoàn chỉnh chúng ta đang dùng hiện nay.
Giám mục Hồ Ngọc Cẩn (1876-1948), trong trước tác của mình, cũng xác nhận và minh oan cho Alexandre de Fhodes - vì đương thời có ý kiến cho rằng ông này đã đạo ý tưởng sáng tạo của những người đi trước (theo Trần Hòa - Báo KG&ĐS 4/12/2016).
Như vậy, Alexandre de Fhodes  là một trong những người có công lớn trong việc Latin hóa bộ chữ tượng thanh vốn có của người Giao Chỉ, tiếp tục công việc của nhiều giáo sĩ đi trước, chứ không phải là người đầu tiên làm ra bộ chữ Quốc ngữ Latin cho người Việt Nam, như ta vẫn nghĩ.
     2. Ông nội ông Đảm là một nhà Nho. Cụ giỏi Nho, y, lý, số. Cụ đã được các thế hệ trước truyền dạy chữ của người Giao Chỉ. Đến cụ, cụ lại dạy cho con cháu. Cứ như thế, đời trước lưu truyền lại cho đời sau. Gia phả của dòng họ, các kiến thức về lý, số, về nghề thuốc... cũng viết bằng chữ Giao Chỉ, nên các đời sau phải học chữ Giao Chỉ thì mới đọc được gia phả, mới biết được nguồn cội, gốc gác của mình và tiếp nối, gìn giữ nghề của cha ông.
Phải chăng đây cũng là một biện pháp để duy trì, bảo tồn được “chữ của người Giao Chỉ” cho đến ngày nay?
Đến đời cụ Nguyễn Kim Khuyên (1920-1998) thân sinh ra ông Đảm, cụ vừa giỏi chữ Nho, lại vừa thạo tiếng Anh, tiếng Pháp. Có thể vì có vốn “Tây học”, nên cụ đã sắp xếp lại bộ chữ cái của người Giao Chỉ theo vần an - pha - bê Latin để cho con cháu dễ nhớ, dễ học.
Liệu còn có tình huống thứ ba, thứ tư nào khác?
Trong buổi làm việc, sau khi đã dùng những “ký tự Giao Chỉ” này lập các quẻ Tiên thiên, Hậu thiên, Trung thiên bát quái, ông lấy cho chúng tôi xem quyển Ngọc phả của dòng họ (bản photocopy) và một cuốn sổ tay cũ, đóng bằng những tờ giấy pơ-luya gập đôi. Theo quan sát, cảm nhận ban đầu của chúng tôi, quyển sổ có khá nhiều năm tuổi bởi giấy đã ố vàng, nhiều dòng chữ bị ố nhòe, nhiều tờ bị quăn góc, sờn rách mép...
Ông Đảm cho biết đây là cuốn sổ ông chép lại từ cuốn vở của cha là cụ Nguyễn Kim Khuyên những điều cần biết về châm cứu, từ những năm 1960. Cả Ngọc phả và cuốn sổ tay đều được viết bằng chữ Giao Chỉ và đã được dịch ra Quốc ngữ...
          Tổ tiên ta từ xa xưa - trước thời Hùng Vương - đã có chữ viết riêng.
Từ khi đặt được ách đô hộ lên đất nước ta, các triều đại phong kiến phương Bắc nhất quán thực hiện mưu đồ đồng hóa dân ta, nên chúng ra sức triệt hạ văn hóa của dân tộc ta và áp đặt văn hóa Hán cho dân ta. Năm 187 (sau CN), Thái thú Sĩ Nhiếp đưa chữ Hán vào, bắt dân ta phải học thứ chữ tượng hình này, không cho dân ta học chữ tượng thanh của tổ tiên và ra lệnh thu hết sách vở, văn tự. Nhà nào cố tình cất giấu còn bị chém đầu...
Đến thế kỷ XV, khi xua quân sang xâm lược nước ta, Minh Thành Tổ đã có chỉ dụ gửi cho Trương Phụ: “...Một khi binh lính đã vào nước Nam thì hết thảy mọi sách vở, văn tự, cho đến các loại ca lý dân gian, các sách dạy trẻ nhỏ... một mảnh chữ phải đốt hết. Khắp trong đất nước, các bia ký do An Nam dựng thì phải phá hủy tất cả, một chữ chớ để sót...” (Cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Ngọc Thêm).
Những cuộc xâm lăng đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc đã để lại hậu quả nặng nề về mặt văn hóa đối với dân tộc ta cho đến ngày nay.
Để tránh sự truy sát tàn độc như vậy của kẻ thù, tổ tiên ta phải mang tài sản quý báu này đi “cất giấu” ở những nơi xa sự kiểm soát gắt gao của chúng.

          Năm 1903, Tổng đốc Thanh Hóa, Hiệp biện Đại học sỹ Vương Duy Trinh, tìm được một cuốn sách có chữ lạ, ông cho rằng đây là chữ của ta thời Hùng Vương. Ông nói: “Người ta thường nói nước ta không có chữ, tôi nghĩ rằng không phải. Thập Châu vốn là đất nước ta. Trên Châu (tức vùng miền núi) có chữ, lẽ nào dưới chợ (tức vùng kinh kỳ, đồng bằng) lại không có chữ. Lối chữ Châu là lối chữ nước ta đó. Thập Châu là nơi biên viễn nên lối chữ đó hãy còn”.
          Nhiều trăm năm nay, đã có nhiều thế hệ con dân nước Việt, bỏ biết bao công sức, tiền của, có người còn bỏ cả mạng sống của mình để đi tìm lại chữ viết của tổ tiên. Nhiều khi chúng ta đã thất vọng, tưởng bộ chữ của tổ tiên đã không còn tìm thấy được nữa, thì đầu năm 2013 công trình nghiên cứu và giải mã chữ Việt cổ của nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền được công bố, khơi lại cho chúng ta niềm hy vọng có thể tìm lại được chữ của tổ tiên.
          Và bây giờ, ta lại phát hiện vẫn còn có người biết chữ của người Giao Chỉ đang sống, đang làm việc ở Tây Nguyên.
Như vậy là, vượt lên sự truy sát gắt gao, tàn bạo của kẻ thù, chữ viết của tổ tiên không bị “đứt mạch” mà vẫn lặng lẽ, âm thầm tồn tại, lưu truyền từ đời này qua đời khác trong một dòng họ. Bộ chữ không chỉ nằm trên những trang giấy cổ, mà nó còn được một con người bằng xương, bằng thịt - một cựu sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, một lương y đang hành nghề chữa bệnh cứu đời - là hậu duệ của dòng họ ấy viết ra.
          Thanh Hóa là một trong những nơi mà tổ tiên ta xưa đã “cất giấu” bộ chữ viết của mình.Thanh Hóa là nơi cụ Vương Duy Trinh phát hiện cuốn sách có chữ lạ mà cụ cho đó là “chữ của thời Hùng Vương”.Thanh Hóa là quê hương của dòng họ Nguyễn Hữu - một dòng họ đã lưu truyền từ đời này qua đời khác cho đến ngày nay thứ tài sản phi vật thể quý  báu này của tổ tiên. Thành phố Kon Tum là nơi một hậu duệ của dòng họ Nguyễn Hữu ấy đang tiếp tục duy trì để ngọn lửa “chữ của người Giao Chỉ” bập bùng sáng mãi.
Những điều đó đáng trân trọng biết nhường nào!
Sức sống của Văn hóa Việt quả là mãnh liệt và bất diệt!
Ngôn ngữ học không phải là chuyên ngành của kẻ viết bài này. Những hiểu biết về lĩnh vực này còn rất ít ỏi, hạn hẹp, chúng tôi mong được sự chỉ bảo của các bậc tiền bối và của quý bạn đọc.
Xin phát hiện với các cơ quan chức năng, các nhà nghiên cứu và quý bạn đọc về một bộ chữ lạ mới được biết đến, được cho là “chữ của người Giao Chỉ”.
Mong có sự vào cuộc của cơ quan chức năng và các nhà nghiên cứu để thẩm định, làm sáng tỏ về bộ chữ này.
Bài thơ Gửi thày mẹ của Nguyễn Huy Lung một chiến sĩ cách mạng gửi về cho cha mẹ mấy ngày trước khi ông tham gia cuộc đấu tranh lưu huyết ngày 12-12-1931 ở nhà ngục Kon Tum. Hơn mười chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc đấu tranh này. Bài thơ được ông Đảm viết bằng “chữ của người Giao Chỉ”.

Con xin thày mẹ chớ buồn thương
Lụy tiết lao lung chính sự thường
Đã quyết liều thân cùng xã hội
Lẽ nào trở mặt với giang sơn
Công nhà nhờ mẹ lo săn sóc
Việc nước khuyên thầy cứ đảm đương
Nghĩa nặng ơn dày khôn trả kịp
Con xin lấy máu tỏ can trường.

                                                                                       Lê Đình Lai



                                               Ông Nguyễn Văn Đảm.