NGUYỄN ANH TUẤN
Trong một bài thơ, NNB hé lộ cho người đọc thơ biết lai lịch đời anh cùng xuất xứ những vần thơ đầu tiên của anh:/ Nơi ấy các bà Tiên dạy tối biết khóc/ Các bà Tiên dạy tôi biết cười/…Nơi ấy là kinh thành cổ tích/ Nơi ấy là đời tôi…
Và trong tập
“Thủng thẳng với thơ”(Nxb Văn học-2011), chúng ta đọc được những dòng
sau của NNB: “Tôi là một nghiệp dư thơ. Một nghiệp dư say mê thơ điên
cuồng, chép chép ghi ghi và chôn ghi ghi chép chép ấy vào mộ huyệt của
im lặng, chỉ thỉnh thoảng, không cưỡng nổi điên khùng, nửa đêm thức
giấc, ngửa mặt nhìn trời đọc thơ gửi mây, tặng gió.”
Nhưng những dòng tự bạch bằng thơ đầy thi
vị lẫn văn xuôi trần trụi trên chỉ giúp ta có thêm mối đồng cảm ban đầu
khi đọc thơ NNB, chứ tuyệt nhiên không giúp ta dễ dàng mở được một cánh
cửa để khả dĩ bước vào thế giới thơ anh! Là một người yêu thơ và đọc
khá kỹ thơ NNB, hơn thế, còn là bạn vong niên của anh từ khi là một cậu
sinh viên văn khoa năm nhất từng bị “thôi miên” bởi hàng chồng thơ chép
tay cao vật vưỡng của đôi vợ chồng thi sĩ nổi danh Nguyễn Nguyên Bảy
& Lý Phương Liên, tôi xin cố gắng thử mở một trong những cánh cửa
Thơ đó.
1. Ta có cảm tưởng, thơ NNB giống như một
cuốn kinh đồ sộ tập hợp biết bao suy tưởng cảm nhận của người thơ về
đời sống, về cội nguồn của đời sống và của thi ca… Song cuốn kinh ấy lại
tựa ma trận của lòng người mà bản thân người làm thơ cũng phải thấy
ngợp, đôi lúc có cảm giác chết chìm, có điều đã luôn phải vùng quẫy để
thoát ra khỏi cơn lũ ngôn từ và ấn tượng để quan sát, để chiêm nghiệm;
và trong khi quan sát chiêm nghiệm đời sống thì quan sát chiêm nghiệm
ngay chính những ấn tượng, những kinh nghiệm sống cùng quan niệm xử thế
của mình, để rồi từ đó, “Thơ đã ra đời như những liều thuốc giải độc trí
tuệ, vì nếu thơ không được sinh ra hẳn tôi đã mắc chứng điên và bị buộc
phải vào nhà thương Thường Tín”- như chính tác giả tự bạch. Như vậy đối
với NNB, làm thơ chính là một cách ứng xử chủ yếu với đời, một cách bảo
vệ phẩm giá đặc biệt, một vũ khí hữu hiệu chống lại sự đểu giả, là một
lý do và một phương thức chính để tồn tại…
NNB khiêm nhường tự nhận là “người thơ
nghiệp dư”, nhưng thực ra đó là một tác giả rất có ý thức về sự nghiệp
thơ ca của mình, và rất chuyên nghiệp. Có điều, anh đã chọn cho mình con
đường thực chông gai.
Trong những năm tháng mà âm thanh cao vút
của những bài hát, chất sử thi – giao hưởng hùng tráng của những “Sư
đoàn”, “Đường tới thành phố”, “Tình yêu và Báo động”, “Lửa đèn”, “Mặt
đường khát vọng”, “Mặt trời trong lòng đất”(1)… là âm hưởng
chủ đạo cho tinh thần xã hội (và đặc biệt cần thiết), thì cái bè trầm
“âm âm lời Chinh Phụ lời Kiều” của thơ NNB chắc chắn không thể được coi
trọng nếu không muốn nói là bị hắt hủi, bị truy bức ra khỏi đời sống
cộng đồng! Lại còn “Tình yêu mượn cánh thánh thần chở che” nữa, rõ là
“ngạo mạn” và “xấc xược”! Mặc dù anh tự nhận đứng trong hàng ngũ: “Chúng
tôi đang viết những tráng ca/ Những tráng ca bằng gươm bằng súng”-
nhưng riêng anh thì lại không viết tráng ca mà lại viết: “Thơ run rẩy
những lời có cánh/Khúc yêu mình trộn khúc thương con”- “Lời ru không vui
không buồn/Thơ hạ cánh đậu nghe lạnh ngắt” khi bếp lạnh và “bụng trống
không”, khi “Khúc yêu trong màn khóc mớ/Khúc yêu lạc giọng ru con”(Tam
tấu).
Giữa những ngày sắt thép máu lửa đó, anh
lại dám “Mơ sen”: “Bỗng cò nghiêng cánh/Gánh tôi về/ Thuyền sen”, và
dũng cảm “Ngẫm về thơ” theo cách chẳng thời thượng chút nào: “Thuyền thơ
chở đầy trăng thơ/Đầy trà đầy rượu đầy hoa/Và đầy nhân tình”. Chiến
tranh không cướp đi của người thơ nguồn cảm hứng vô tận về “Mùa yêu”:
“Âm dương tình ngỡ trong mơ/Mùa yêu chẳng có bến bờ thời gian”. Trong
“Mùa yêu” đó, dường như anh cố gạt đi những âm thanh chát chúa để lắng
nghe rõ hơn bao giờ hết “Dân ca buồn con sáo sang sông” hay “Rêu cổ tích
rù rì kể chuyện” và ngẩn ngơ trước số phận do các bà Tiên xếp đặt:
“Phải định mệnh nhân duyên/Bỏ bùa anh lạc lối/Ai rủ chân sen tới/Cửa
rừng nơi hẹn hò?”.
Trong khi những lứa đôi chia tay nhau để ra trận, người thơ lại “Hát tặng biệt ly”: “Nghe sông chảy lững lờ đôi buồm trắng/Nghe phố xá nằm dài trong mật nắng/Nghe nôn nao cánh bướm đậu hoa vàng”.
Trong khi những lứa đôi chia tay nhau để ra trận, người thơ lại “Hát tặng biệt ly”: “Nghe sông chảy lững lờ đôi buồm trắng/Nghe phố xá nằm dài trong mật nắng/Nghe nôn nao cánh bướm đậu hoa vàng”.
Cái thời cần kêu gọi lòng căm thù và ý
chí chiến đấu thì anh lại đưa ra những lời đạo lý cổ xưa của ông cha
tưởng chừng lạc lõng: “Này cò này vạc này nông/Không sống tử tế đừng
mong thành người” (Ký ức ca dao).
Một “Vườn chiều có thực” của thời chiến
tranh có khói hun muỗi từ giẻ mà anh lại hình dung như một vùng đất cát
mềm của Tiên Dung – Chử Đồng tử, của Giếng ngọc Cổ Loa, có tiếng hát
Trương Chi, ở đó “Tôi đang độc ẩm cuồng say/Những ly rượu thơ cồn cào
bụng đói/ Bao nhiêu người đang đói/Có thơ uống như tôi đâu/Sao em lại
cúi đầu/Thương tôi mắt khóc?”(Vườn chiều).
Trong những năm đáng lẽ chỉ được hát ca,
anh đã ngậm ngùi kể về người mẹ vẫn “Thương thằng mộng mị thơ ca/Chọn
yêu cuộc tình kiếp nạn”, và về người vợ “Chít trắng đầu tang/Nuôi đàn em
thay mẹ/Mom sông cô gái nhỏ/Tay cò mắt vạc kiếm ăn” (Thuyền tình).
Những điều “xa lạ” và “lạc lõng” nói trên- xét cho cùng là vô hại, thậm chí chúng cần thiết giúp cho con người giữ được cái gốc nhân bản trước những thảm cảnh khốc liệt, song đã vô tình góp phần tuyên một cái án “không có án” để gia đình thi sĩ phải ôm hận “ly hương” suốt mấy chục năm trời sau đó!
Những điều “xa lạ” và “lạc lõng” nói trên- xét cho cùng là vô hại, thậm chí chúng cần thiết giúp cho con người giữ được cái gốc nhân bản trước những thảm cảnh khốc liệt, song đã vô tình góp phần tuyên một cái án “không có án” để gia đình thi sĩ phải ôm hận “ly hương” suốt mấy chục năm trời sau đó!
Thực ra, trong những năm tháng đạn bom
ấy, người thơ có phần lập dị này cũng sống như tất cả cư dân Hà Nội. Anh
đã sững sờ trước “những kỳ ngộ đẹp như thơ/Tình mình làm sao sánh
được/Ấy là lẽ vì sao em không khóc/Trước gian nan tem gạo phiếu tiền”.
Anh đã khóc như tất cả những người dân lúc đó trước câu chuyện về người
bác sĩ trẻ chết bởi bom Mỹ trong ngày cưới, đã xúc động run người trước
hành động bất chấp hiểm nguy của những con người lao động bình dị: “Cô
bác sĩ Cửa Đông nuốt khóc/Thiệp hoa phủ xác nửa mình/Anh thợ điện người Ô
quan Chưởng/Bới nhặt nửa mình trong đổ nát Khâm Thiên…”(Ca trù mùa
thu). Anh cũng trở về cơ quan để “thay ca trực chiến” như mọi phóng viên
khác của Đài tiếng nói VN, cũng “đồng loạt cánh tay giơ” để “lên Tháp
Bút viết hùng ca”… Nhưng, cái “tạng” của anh không phải là “hùng ca”; và
điều đáng quý là, người thơ hiểu rõ hạn chế của mình, anh đã không ít
lần tự dày vò: “Mặt trận cờ reo quân reo/Trào lửa mà đành nuốt khóc/
Đứng tựa lưng trăng/Bút thay gươm súng/Chuốt câu thề” (Tự họa tuổi
trai).
Người thơ có khát vọng lý giải sức mạnh
chiến thắng của hiện tại bằng mạch nguồn từ xa xưa, nên cũng dễ hiểu anh
thường để “Hồn quanh quất nơi cửa rừng nguyên thủy” (Về cội). Với trí
tưởng tượng phong phú tràn ngập cảm hứng lịch sử, NNB hình dung: “Trăng
nhớ những đêm Lạc Việt/ Gươm kiếm mài ngời trăng lu” (Chứng tích chiến
tranh). Anh say sưa với “dòng sông chảy qua làng Việt cổ”, với những nơi
nào từng có “Sá cầy lật mở binh thư/Người cấy lửa vào lúa/Người chép
lửa vào thơ” (Huyệt lửa). Anh là nhà thơ đầu tiên của thời mới tìm thấy
sự đồng cảm lạ lùng với Thánh thơ Cao Bá Quát và có cả một tráng ca về
cụ: “Đời Quát có hai vua/ Thơ Quát chỉ có quyền chọn một”- và Cao Bá
Quát đã chọn”một ông vua là con dân mẹ nước”; thế nhưng “Đói khát vẫn
hoàn đói khát/ Xã tắc khốc hư/ Ngậm miệng vái xin trời Phật”, và anh
nguyện sống với “Thác đoàn quân Cao Bá Quát/ Vào tử tìm sinh.” (Thánh
Thơ).
Từ cảm hứng lịch sử, NNB nhìn lại cuộc
chiến tranh hiện tại và có cách cảm nghĩ riêng. Trong bài “Quả Mặt
trời”, trước tội ác hủy diệt của giặc Mỹ, anh băn khoăn: “Chảy đi đâu
hỡi máu”- “Máu đã chảy lên thành Quả Mặt trời”- nhưng ấn tượng hơn cả
vẫn là “Giấc mơ thơ nát bấy như bùn” và “Tọa tòa sen Phật bà khóc” (Chùa
Một cột).
NNB muốn “Tượng hình làng quê sông núi”
theo cách riêng của anh: “Tinh tú tôi ơi, sao thốt lời buồn/Lập nghiệp
gì đâu đời thi sĩ/… /Em gái quê cần lời thay nước mắt/Ủ vào khăn tặng
bạn trước chia ly/ Và với tôi điệu vần ấy đôi khi/ Cứu tuyệt vọng xô đời
xuống vực” (Tinh túy ngộ duyên). Nhà thơ biết phận mình: “Đời cha nghèo
xác/Chỉ những bài ru là giàu có hơn người” (Ru con).
Mặc dù NNB không chỉ một lần tôn vinh:
“Nụ cười là đặc sản của dân tộc tôi” (Đề dưới nụ cười), song ở thơ anh
phần lắng đọng rung cảm nhất lại là “giọt khóc rơi xuống thì thầm” của
người phụ nữ (Cầu thương). Bởi chính người thơ tuyên bố: “Mà tôi/ nghĩ
lạ lùng chưa/Học khóc/Bởi sợ đời dư hát cười”(Học khóc). Nhà thơ không
chỉ nhìn thấy những quả bom rơi xuống đe dọa cuộc sống bình yên, mà còn
nhìn thấy cả chặng đường lam lũ đói khổ của các làng quê Việt từ ngàn
xưa và chưa biết đến bao giờ chấm dứt: “Sông cái chia nhánh còng số
tám/Nước khóa làng tôi”- “Thương đất trắng chìm trong lũ”( Làng nước)-
“Những câu ru nhang cháy/ Dưới trời bâng khuâng hương”(Lời ru dưới mỗi
mái nhà). Nhà thơ tự nhận: “Anh có lỗi đã thăng hoa bi kịch”. Nhưng anh
không thể làm khác, bởi một lẽ giản đơn: “Anh hằng kể con nghe kiếp sống
ông bà/Trải bao nhiêu cực khổ/Vẫn trước sau làm người tử tế/Ngẩng đầu
đi khắp thế gian”. Điều khiến anh băn khoăn giữa lúc phải trốn chạy cái
chết từ trên trời rơi xuống cũng là: “Con anh sao chẳng nên người/Cháu
anh sao chẳng nên người/Không nên người/Thì sao còn sông Cái sông Con/
Sao còn tiếng hát Mỵ nương/Chèo đò lên non Tản/Bỗng cháu nội hươ hươ
thức sảng/Hỏi sao ông khóc ông ơi?”
Xu thế thời đại là phải vươn tới đỉnh
cao, phải “ra ngõ gặp anh hùng”, vậy mà anh dám chỉ nhận mình là “tre
nứa”: “Thông tùng cao ngạo phong ba/Chẳng lẽ tre nứa không là đời cây?/
Mặc ai chò chỉ lim mây/Ta vẫn kiêu hãnh một cây giang thường”. Thái độ
nhún nhường đó chắc cũng gây ra không ít sự soi mói, nghi kỵ.
Trực giác và kinh nghiệm sống giúp nhà
thơ nhìn thấy giữa thời “hùng ca” đó đã manh nha những vấn đề đáng quan
ngại đối với đạo lý truyền thống – đó là chủ nghĩa xu thời, chủ nghĩa
thực dụng, thói ích kỷ xuất hiện, cùng những thứ không thể tồn tại bên
cạnh sự “tử tế”; nhiều lần anh đã phải thốt lên cay đắng: “Quanh ta hỏi
có bao người/ Gian manh mà vẫn sống đời tụng ca” (Bài ru trằn trọc).
Những khi chán nản,”Giữa Âm Dương mông
lung”, buộc phải “Hát rong tôi trộn kinh hoàng vào đêm”, nhà thơ chỉ
biết “Tôi tụng tôi/ Nhân quả”(Cửu tụng). Thất vọng bởi những lời hứa hẹn
xuông, những diễn văn lắm lời với những viễn cảnh to tát chỉ có ở thiên
đường, anh “thắp nén nhang thơ”(Chép thơ công nghiệp đất) và khao khát
“Ra với biển đi tất cả những ai/Hoang tưởng như tôi biển mời ra
biển”(Biển mời), hay cư xử một cách khá nghênh ngang làm tức mắt chẳng
ít người: “Tôi bay trên bể đời giông tố hát nghêu ngao”. Anh tìm đến
Thiên nhiên như cội nguồn sinh lực và lòng tin yêu cho mình: “Tâm hồn
anh bay lượn giữa thiên nhiên/nghe ríu rít tiếng thơ trong lá cỏ”- “Công
danh thế là quá đủ/Phận mình thuyền thúng qua sông”… Tất cả cốt chỉ để
mong vượt qua những nghiệt ngã của đời mà anh kể lại trong “Tự thuật
sinh tồn”. Thế nhưng anh đã vô tình “Phạm luật người quan họ” và phải
trả giá: “Khốn khổ thân tôi đa tình/Phạm luật người quan họ/Cõng một
cánh bèo giạt trôi”( Quan họ không ngoại tình).
Và gần suốt đời nhà thơ phải “hơ hoảng”
khi đã quá dại dột, dám liều mạng làm một chuyện tày đình vào những năm
70 thế kỷ trước khi tuyên bố thẳng thừng: “Thơ là Thơ. Thơ không phải là
địa vị xã hội của người làm thơ”, và “phạm tội trẻ con” là “Luận Kiều
thời chinh chiến…” (Tự thuật tội lỗi).
Không hiểu sao, tôi chợt liên tưởng người
thơ có phần “kỳ dị” này với nhân vật bác sĩ – nhà thơ Zhivago của nhà
văn Nga Boris Pasternak. Trong biết bao sóng gió kinh hoàng của số phận,
cắn răng chịu đựng những tàn bạo phi lý của chiến tranh, Zhivago vẫn
băn khoăn trăn trở với sự nghiệp văn chương của mình; anh đã viết bản
trường ca “Xao xuyến” với ý tưởng sáng tác như sau: “Bao lâu nay chàng
vẫn muốn miêu tả cái cảnh trong ba ngày một cơn bão đất đen tối, lúc
nhúc dòi bọ, bao vây và tấn công ra sao cái hiện thân bất diệt của tình
yêu, ném đất đá rào rào vào nó, vào cái hiện thân ấy, hệt như những lớp
sóng biển dồn dập đập vào bờ và chôn vùi bãi biển…”(Bác sĩ Zhivago – Lê
Khánh Trường dịch)
2. Trong khi “tìm cho mình một con đường khác, lầm lũi riêng mình,
lầm lũi yêu thơ”, NNB hầu như không bao giờ hoàn toàn hòa nhập vào cảnh
ngộ, mà anh thường có góc riêng kín đáo nhìn đời, nhìn chính thân thế và
tâm trạng của mình để phát hiện ra các thi tứ và “tụng” thành thơ sau
khi đã âm thầm vượt qua bao nỗi buồn đau cay đắng. Sau khi đã tạm thời
“hóa thân” vào nàng Kiều, vào Từ Thức, vào các bà Tiên, vào Sông Cái,
vào Thánh Thơ… nhà thơ dần lùi xa khỏi những nhân vật tưởng tượng để bắt
đầu miêu tả, dựng lên thế giới tinh thần của họ – bằng cách đó mở rộng
đến gần như là vô hạn biên độ của xúc cảm và tư duy nhận thức. Sau khi
đã “khách quan hóa” nhân vật trong tưởng tượng, NNB làm công việc khảo
sát, đánh giá về thân phận, phẩm cách… của nhân vật đó và đồng thời cũng
tự bộc lộ thân phận cùng phẩm cách của chính người thơ. Thường là, từ
một nguyên cớ, một biểu tượng giàu sức thuyết phục hay đã từng quen
thuộc trong đời sống lịch sử – văn hóa dân tộc, sau khi đã làm giàu có
thêm cho biểu tượng bằng nội lực văn hóa thẳm sâu và thăng hoa nó bằng
xúc cảm thơ tràn trề, anh quay trở lại đào sâu mãi vào chính nội tâm
đang ngổn ngang (thậm chí có thể còn đang hoang mang nữa) của mình như
đã tìm được chỗ dựa, đã tìm được vỉa mạch, và chính tại những chỗ này,
khi “Anh bật khóc thành tiếng/Nước mắt tràn đê”, thơ anh thường lóe sáng
một cách thực bất ngờ, khiến người đọc rung động ngây ngất… NNB thường
đem cả trải nghiệm đời mình làm chỗ dựa, làm sự tham chiếu cho từng câu
thơ một! Và phải chăng điều này cũng đã góp phần quan trọng khiến thơ
NNB trở nên vô cùng phong phú- phong phú đến rậm rịt làm người đọc như
lạc vào mê hồn trận của chữ nghĩa phập phồng cảm xúc của tác giả nhưng
vẫn được tác giả kéo riêng ra một chỗ để suy ngẫm về nhân tình thế thái.
(Tiêu biểu như các bài: Từ Thức bơ vơ, Sông cái mỉm cười, Ô cửa vuông
trăng, Âm dương, Gia phả, v.v.)
Nhưng ngay cả khi viết về (hay viết cho)
một đối tượng gần gũi thân yêu nhất, NNB cũng xử dụng biện pháp tạm gọi
là “phân thân” này. Trong bài “Hai ngôi sao không lặn bao giờ”, đoạn đầu
nhà thơ bày tỏ tình cảm trực tiếp với vợ: “Anh không nhận ra em/Một năm
có là bao xa cách/Em ủ đầu anh vào ngực/Anh không thể nào hỏi được/Sao
tiều tụy thế mình ơi?” Nhưng ngay liền đó, nhà thơ tách ra khỏi quan hệ
trực tiếp để quan sát người vợ kỹ càng hơn, thông qua biểu tượng là đôi
mắt, và đồng thời quan sát miêu tả chính nỗi xúc động của mình- hơn thế,
để khái quát về thân phận của người phụ nữ trên “đường đời nhiều cạm
bẫy”: “Chỉ còn đôi mắt/Đôi mắt chậm chạp u buồn/Một nốt ruồi đẫm lệ/Chỉ
còn đôi mắt/Đôi mắt vẫn như ngày nào/ Đôi mắt ngày nào tôi nói yêu
em/Đôi mắt khép nhận lời/Chỉ còn đôi mắt của vợ tôi/Toàn thân em như cây
thị rũ lá/ Khô cành trước gió ban mai/Chỉ còn đôi mắt/Đôi mắt kể tôi
nghe/Lưng ngày nắng quật/Đêm ngồi bỏng vú nuôi con/ Vai gánh nỗi thương
chồng/Đi xa đường đời nhiều cạm bẫy/Chỉ còn đôi mắt/ Đôi mắt đổ xiêu.”
Tới đoạn 3, đoạn sau cùng, nhà thơ lại trở về vị trí trong đoạn thơ đầu,
trực tiếp tâm tình với vợ; nhưng ở đây, đôi mắt đã được tách ra thành
đối tượng thẩm mỹ riêng biệt đối với cả hai người, và đó chính là một sự
“phân thân” cấp số nhân khiến cảm xúc được dồn nén nghẹn ngào suốt từ
đầu bài thơ đến cuối cùng chợt vỡ òa: “Anh ôm đôi mắt ấy/Bỗng òa đôi mắt
khóc/Tình rụa ràn mặt anh/Đôi mắt u hoài trong vắt/ Đôi mắt ấy chính là
hai ngôi sao trên trời/Đêm đêm nhìn anh/Thức với anh/Đi cùng anh/Hai
ngôi sao không lặn bao giờ.” Thương cảm nhưng không chìm ngập trong nó
mà để đúc rút ra được biểu tượng của Cái Đẹp và Tình Thương! Đây có thể
nói là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu cho phong cách NNB
(tạm gọi thế); và nếu tôi có trách nhiệm trong Ban tu thư soạn SGK, tôi
sẽ lập tức đưa bài này vào chương trình văn phổ thông trung học!
Nhìn chung, ở thơ NNB, các yếu tố tự sự
(narrative) và trữ tình (lyric) hòa quyện khó phân biệt – trong tự sự đã
thổn thức trữ tình và khi trữ tình lại đậm đặc tự sự – đó là một thứ tự
sự giống thể văn kệ của văn học Phật giáo song lại giàu trực cảm. Sự
trang trải thi hứng đến ào ạt không ngăn cản NNB thường cô đúc câu của
thơ mình vào một hình thức ngắn gọn, mộc mạc như lời nói thường ngày
song có sức nặng triết lý như châm ngôn, tục ngữ và gửi gắm được suy tư
thâm trầm của một” thầy phù thủy” chữ nghĩa”. /Có đường bởi có bước
chân/Có ngã ba bởi đời cần tìm nhau” – “Em đã trả lại anh cho đời/Đã trả
lại dòng thơ thủ thỉ cho yêu/Cái chết bỗng trở thành hèn nhát” – v.v.
Ngay từ những bài thơ đầu tiên của mình,
NNB dường như đã có xu hướng huyền thoại hóa những hình ảnh, những chi
tiết thơ, những quan sát cùng nhiều thi liệu khác đã trở nên quen thuộc
thậm chí mòn sáo nhưng khi nhìn qua “Gằm gằm nỗi gì sau đít chai” cộng
với một tình thương trĩu nặng thường trực thì “ngựa lá đa sẽ hóa ngựa
thần”… Xu hướng tinh thần và dần biến thành quan niệm sáng tác vững bền
này khiến người thơ thỏa sức chìm trong “Ký ức ca dao”, trong “lung linh
cổ tích đêm mơ” và biết bao biểu tượng của văn hóa Dân Tộc gần gũi với
mỗi người dân Việt từ thở ấu thơ cho đến khi từ giã cõi đời- dù ở bất cứ
nơi nào trên trái đất. Thơ NNB, từ thời xa lắm cho tới gần đây nhất,
hầu như chỗ nào cũng ướt lệ và thầm thì âm hưởng những lời ru nao lòng
“rợp từng đàn cò trắng” hay “âm âm lời Chinh phụ lời Kiều”… Nhà thơ đi
trên “một con thuyền Trương Chi “suốt từ thời tráng niên cho tới ngày
lên lão mà chưa hề thấy mệt mỏi, chán nản, ngược lại dường như càng đắm
say thêm những gì được thấy được nghe trên con thuyền ấy- kể cả tiếng
hát cô đơn xa xót của chính mình… Nếu bình tĩnh đọc và nghiền ngẫm dễ
nhận thấy: mọi tâm tư, mọi nhận xét, mọi kiến thức, mọi thi hứng… của
NNB dường như được liên kết lại trong/ và nhờ một trường cảm xúc – liên
tưởng khá đặc biệt mà từ đó, tác giả phiêu du vào cõi Mộng; và cái cõi
Mộng này (nhiều lúc kèm theo Ảo) thực ra cũng chỉ là hồi quang của ấn
tượng lịch sử, của kinh nghiệm trường đời từng được lặn sâu trong mạch
đời sống tâm hồn Dân Tộc. Đó là sợi tơ lòng thầm kín nhất, nhạy cảm
nhất, và có thể nói là đắm đuối nhất kể từ những năm tháng người thơ
được “bú mớm” bởi tình thương của các bà Tiên trong “Kinh thành cổ
tích”, để lúc nào cũng sẵn sàng ngân lên thành lời ân nghĩa, thành “Thơ
Dâng” (Tên một tập thơ nổi tiếng của thi hào Ấn Độ R.Tagore). NNB bơi
lội hít thở trong cái “trường” văn hóa Dân Tộc đậm đà tình nhân ái của
ông cha từ thở thơ ấu, từ buổi “lần đầu tiên thấy lòng tôi chiêng
trống”, mà đối với anh dù đi suốt cuộc đời “vẫn là mới sáng hôm qua”…
Nhưng không phải nhà thơ vay mượn những hình ảnh, những biểu tượng và sự
thụ cảm dân gian ấy, mà chúng thực sự là máu thịt của anh, nảy sinh từ
trong huyết quản và từ tận tế vi tiềm thức, chúng được chứng thực bằng
nỗi đau riêng và nỗi đau chung của anh! Lắng nghe một cách chăm chú chật
vật, giao tiếp một cách đau đớn, đối thoại một cách vật vã, để rồi sau
đó nhà thơ chỉ làm cái việc là vội vàng run rẩy ghi lại một cách chân
thật những gì mà tiềm thức nói, những gì mà chàng Từ Thức tâm sự, những
gì mà Thánh Thơ Cao Bá Quát dạy bảo, những gì mà nàng Kiều thổn thức,
những gì mà bà Tiên phán truyền, những gì mà người cha trăng trối… Sự
thống nhất khá bền vững của hệ thống thi liệu và cách thụ cảm dẫn tới
nghệ thuật biểu hiện rất nhạy cảm với nỗi khổ đau này, theo tôi là một
nét đặc sắc riêng biệt khó trộn lẫn với bất kỳ ai của thơ NNB, lý giải
phần nào sức cuốn hút gần như huyền bí của thơ anh. Và chính cái trường
cảm xúc – liên tưởng nói trên cũng góp phần quan trọng tạo nên một người
thơ NNB không giống ai, nó tựa một thứ “tâm trạng mỹ học đặc biệt” được
nhiều nhà nghiên cứu văn học & nghệ thuật đã nói đến, tiêu biểu là
của tác giả E. Weber: “Tảng đá tư tưởng rơi vào tâm trạng này và làm dấy
lên những đợt sóng tinh thần, những đợt sóng này vươn tới sự biểu hiện
bằng ngôn ngữ và sẽ phải trở thành Thơ.”(2)
Mấy chục năm trước trong ghi chép “Thủng
thẳng với Thơ”, NNB đã tâm sự: “Tôi lắng nghe nhịp đập trái tim mình từ
mọi phía khác nhau của cuộc đời, sự chỉ huy không phải là bộ óc, mà là
trái tim, cho nên những phấn khích nội dung nơi trái tim liền tức khắc
thành thơ, những vần thơ ấy nhiều khi mâu thuẫn với chính tư duy của
mình”. Cũng nhờ sự mâu thuẫn đó, cũng giống như trong nghề làm gốm, một
bình gốm bị “hỏa biến” tức là không làm chủ được nhiệt độ thì sản phẩm
bị hỏng, nhưng cũng có lúc lại tạo ra sản phẩm kỳ lạ độc nhất vô nhị,
tác phẩm thơ đôi lúc thăng hoa không ngờ. Trong thơ NNB, ta gặp không ít
trường hợp như vậy. Trong bài gần đây nhất “Hello” ta có thể nhận ra:
tất cả những màu sắc rực rỡ hay xám xịt, những tiếng khóc tiếng cười,
những chuyện vui – buồn, cũ – mới trong cuộc đời này, từ nước Việt xa
xôi đến những bang của nước Mỹ… đều có thể ném vào hai câu thơ sau đây
như một cái “thùng không đáy”, đầu bài: “Chỉ thấy chữ múa chữ hát chữ
hôn chữ làm tình chữ gục đầu chữ khóc”, và cuối bài: “Người viết những
dòng nhật ký này hello cùng tiếng nức nở trong lòng”. Tới lúc đó, hình
như người đọc cũng vô tình phải làm thơ theo anh, cũng muốn “hello” với
một giọt lệ cay trong đáy mắt…
Tuy vậy, trong lúc say sưa “Chuyền tay
chữ hát xuống thuyền”, thơ NNB không phải bài nào cũng “đắc ý” làm thỏa
mãn người đọc. Những kiến thức dày đặc về triết học Á Đông, về sử học,
nhân học, văn học dân gian… được thể hiện trong thơ NNB không phải lúc
nào cũng được xử dụng đúng chỗ, đắt giá, thậm chí đôi khi chúng làm thơ
anh nặng và rườm. Nhưng dù thế, chúng cũng đều kịp thủ một “sứ mệnh” nào
đó trong kho “Lưu trữ yêu” của thi sĩ có thân phận khá đặc biệt này.
3. Trong một tập sách đối thoại về thơ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức
Tùng có dẫn câu nói của nhà thơ Wiliam Carlos Wiliams: “Khó mà có thể
tìm ra các tin tức trong thơ, thế nhưng hàng ngày, con người vẫn chết
thê thảm vì họ thiếu những điều chỉ tìm thấy trong thơ.”(3) ”Những
điều chỉ tìm thấy trong thơ” đó- dĩ nhiên phải là thơ thứ thiệt- chúng
ta có thể tìm thấy trong từng dòng, từng trang thơ NNB mà ở đó anh đã
thành thật đến não lòng kể lại: “Thơ tôi đã ra đời trong tiếng gõ cửa
dồn gấp, trong những lời kêu thét bệnh hoạn, trong đói nghèo muốn cuốn
đời vào hèn hạ, nhưng nó vẫn kiêu hãnh khóc như trẻ sơ sinh, trên cái
bàn chỉ đứng ba chân…Tôi đã chép những chán nản ấy, những thất vọng ấy,
những cay đắng ấy vào thơ. Và hân hoan thay, thơ trả lại cho tôi những
dòng chữ nghĩa như khí cho tôi thở, như lửa cho tôi chế biến thức ăn,
như sông suối cho tôi tắm mát. Đó là đức tin phải có, đức tin phải sáng
rạng trong tâm hồn…” (Thủng thẳng với thơ). Và với riêng tôi, đây mới là
điều đáng yêu, đáng quý nhất của thơ NNB: Trầm lắng vào cuộc đời Dân
Tộc, đúng hơn là vào hành trình đau khổ của Dân Tộc- với phương tiện khi
là lục bát, lục bát biến thể, khi thơ không vần, thơ văn xuôi…- nhà thơ
bằng cách đó đã làm giàu có cho tinh thần mình, để trước hết dạy dỗ cho
con cháu anh thông qua “Bài ru trằn trọc” về những lẽ đời nghiêm trang
cảm động, và bài học quan trọng nhất là tình thương, lòng trắc ẩn- cái
điều đang thiếu trầm trọng trong hệ thống giáo dục của ta! (Tôi bỗng nhớ
đến Châm ngôn thứ hai trong việc giáo dục học trò ở tác phẩm lớn “Émile
hay là về giáo dục” của J.J. Rousseau chính là câu thơ Latin của thi
hào Virgile: “Tôi biết điều bất hạnh, chính nó dạy tôi cứu giúp những
người đau khổ”).
Thưa Bạn đã và sẽ yêu quý thơ NNB, hãy
thử, với một cánh cửa tạm mở như trên mà bắt đầu (hay thêm một lần nữa)
bước vào thế giới thơ anh, và trước hết hãy đọc nó như đọc một tập kinh
cầu nguyện khi ta có Đức tin về Thơ, về Tình thương và Ân nghĩa trong
Cõi Đời còn nhiều gian truân và ngang trái này…
____________________
* “Thơ Nguyễn Nguyên Bảy I”, Nxb Văn học, HN-2010 & “99 khúc tặng Liên”, Nxb Văn học, HN-2012
____________________
* “Thơ Nguyễn Nguyên Bảy I”, Nxb Văn học, HN-2010 & “99 khúc tặng Liên”, Nxb Văn học, HN-2012
1. Tên những tác phẩm trường ca & thơ
dài nổi tiếng củaNguyễn Đức Mậu, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật,
Nguyễn Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo…
2. Dẫn theo: “Tâm lý học sáng tạo văn học”- M. Arnaudov, Nxb
Văn học, HN-1978, tr.536.
3. Dẫn theo: “Thơ đến từ đâu”, Nxb Lao động, HN, 2009
Hà Nội, 2011- 2013
Đạo diễn-nhà văn Nguyễn Anh Tuấn
Đạo diễn-nhà văn Nguyễn Anh Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét